0905 777 197

Tìm hiểu siêu âm sản khoa là gì?

Ngày đăng 04-12-2019

Siêu âm sản khoa là việc sử dụng máy siêu âm trong thời kỳ mang thai. Kể từ khi ra đời vào cuối năm 1950 siêu âm đã trở thành một công cụ chẩn đoán hữu ích trong sản khoa.

hinh-anh-sieu-am-san-khoa

Các thiết bị được sử dụng hiện nay được gọi là máy quét thời gian thực, trong đó hình ảnh liên tục của thai nhi di chuyển có thể được mô tả trên màn hình. Các sóng âm thanh tần số rất cao từ 3,5 đến 7,0 megahertz (tức 3,5 đến 7 triệu chu kỳ / giây) thường được sử dụng cho mục đích này.

Chúng được phát ra từ một đầu dò được đặt tiếp xúc với bụng mẹ, và được di chuyển để “nhìn” (ví dụ như ánh sáng chiếu ra từ ngọn đuốc) bất kỳ thứ gì đặc biệt trong tử cung. Mảng lặp lại của các tia siêu âm quét các bào thai trong lát mỏng và được phản xạ lại trên cùng một đầu dò.

Thông tin thu được từ những phản xạ khác nhau được tái hiện lại thành một hình ảnh trên màn hình. Các cử động như nhịp tim thai nhi và dị dạng trong feus có thể được đánh giá và đo có thể được thực hiện chính xác trên các hình ảnh được hiển thị trên màn hình. Các phép đo này tạo thành nền tảng trong việc đánh giá tuổi, kích cỡ và sự tăng trưởng của thai kỳ.

Tại sao và khi nào siêu âm được sử dụng trong thai kỳ?


Siêu âm hiện đang được xem là một cuộc kiểm tra an toàn, không xâm lấn, chính xác và hiệu quả trong thai nhi. Nó đã dần dần trở thành một công cụ sản phụ khoa không thể thiếu và đóng một vai trò quan trọng trong việc chăm sóc của mọi phụ nữ mang thai. 

sieu-am-san-khoa

Việc sử dụng siêu âm chính là trong các lĩnh vực sau:

1. Chẩn đoán và xác nhận thai kỳ sớm.

Các túi thai có thể được hình thành sớm lúc bốn tuần rưỡi của thai kỳ và túi noãn vào khoảng năm tuần. Phôi có thể được quan sát và đo lúc khoảng 5,5 tuần. Siêu âm cũng có thể rất quan trọng xác nhận vị trí mang thai nằm trong khoang tử cung hay không.


2. Xuất huyết âm đạo trong giai đoạn đầu của thai kỳ.

Khả năng tồn tại của bào thai có thể được ghi lại khi có xuất huyết âm đạo trong giai đoạn đầu của thai kỳ. Một nhịp tim có thể nhìn thấy có thể được nhìn thấy và phát hiện bằng siêu âm Doppler xung khoảng 6 tuần và thường rõ ràng là có thể mô tả được trong 7 tuần. Nếu điều này được quan sát thấy, xác suất mang thai cao hơn 95%. Những vụ thai bị mất và trứng ứ đọng thường sẽ cho những hình ảnh điển hình của túi thai bị biến dạng và vắng mặt cột thai hay nhịp tim.

Tỉ lệ nhịp tim của thai nhi có xu hướng thay đổi theo tuổi thai ở những phần rất sớm của thai kỳ. Nhịp tim bình thường lúc 6 tuần là khoảng 90-110 nhịp mỗi phút (bpm) và ở 9 tuần là 140-170 phút / phút. Ở 5-8 tuần, nhịp tim chậm (ít hơn 90 phút / phút) có nguy cơ sẩy thai cao.

Chẩn đoán thai thất thường

Nhiều phụ nữ không rụng trứng vào khoảng ngày 14, vì vậy những phát hiện sau một lần quét duy nhất nên được giải thích cẩn thận. Chẩn đoán thai thất thường thường được thực hiện bằng các siêu âm nối tiếp chứng tỏ sự thiếu phát triển của thai nhi. Ví dụ, nếu quét siêu âm thể hiện phôi 7mm nhưng không thể chứng minh được nhịp tim rõ ràng thì có thể chẩn đoán được thai đã bị mất. Trong những trường hợp này, có thể lặp lại siêu âm trong 7-10 ngày để tránh bất kỳ sai sót nào.

Thời gian của một thử nghiệm thai dương tính cũng có thể hữu ích trong vấn đề này để đánh giá những ngày tháng có thể thụ thai. Ví dụ, một thử nghiệm mang thai dương tính trước đó 3 tuần cho thấy tuổi thai ít nhất 7 tuần. Thông tin như vậy sẽ hữu ích đối với việc giải thích các cuộc quét

Trong sự hiện diện của chảy máu ba tháng đầu, siêu âm sản khoa cũng là không thể thiếu trong chẩn đoán sớm thai ngoài tử cung và thai lưu.

3. Xác định tuổi thai và đánh giá kích thước thai nhi.

Các phép đo cơ thể thai nhi phản ánh tuổi thai của thai nhi. Điều này đặc biệt đúng trong thời kỳ mang thai sớm. Ở những bệnh nhân có thời kỳ kinh nguyệt không rõ ràng, những phép đo như vậy phải được thực hiện càng sớm càng tốt trong thai kỳ để có được ngày dự sinh đúng cho bệnh nhân. Trong phần sau của thai kỳ đo các thông số của cơ thể sẽ cho phép đánh giá về kích thước và sự tăng trưởng của thai nhi và sẽ hỗ trợ rất nhiều trong chẩn đoán và quản lý sự chậm phát triển trong tử cung (IUGR) .

Các phép đo sau đây thường được thực hiện :

a) Chiều dài đầu mông (CRL)

Đo lường này có thể được thực hiện trong khoảng từ 7 đến 13 tuần và ước tính rất chính xác về tuổi thai. Dự sinh với CRL có thể trong vòng 3-4 ngày sau khi kinh nguyệt cuối cùng. Một điểm quan trọng cần lưu ý là khi ngày đến hạn đã được thiết lập bằng một CRL được xác định chính xác, thì không nên thay đổi bằng lần quét tiếp theo. Ví dụ, nếu một lần quét khác 6 hoặc 8 tuần sau nói rằng cần phải có ngày đến hạn mới xa, người ta không nên thường thay đổi ngày, nhưng nên giải thích phát hiện này như là em bé không tăng trưởng với tốc độ mong đợi .

b) Đường kính lưỡng đỉnh (BPD)

Đường kính giữa 2 mặt của đầu. Điều này được đo sau 13 tuần. Nó tăng từ khoảng 2,4 cm ở 13 tuần đến khoảng 9,5 cm ở thời hạn. Những đứa trẻ khác nhau có trọng lượng tương đương nhau có thể có kích thước đầu khác nhau, vì vậy dự sinh ở phần sau của thai kỳ thường được coi là không đáng tin cậy. Dự sinh bằng cách sử dụng BPD nên được thực hiện sớm nhất là khả thi.

c) Chiều dài xương đùi (FL)

Đo đoạn xương dài nhất trong cơ thể và phản ánh sự tăng trưởng theo chiều dọc của bào thai. Tính hữu dụng của nó tương tự như BPD. Nó tăng từ khoảng 1,5 cm ở 14 tuần đến khoảng 7,8 cm ở thời hạn. Tương tự như BPD, dự sinh bằng cách sử dụng FL nên được thực hiện càng sớm càng tốt.

d) Chu vi bụng (AC)

Đo lường quan trọng nhất để thực hiện vào cuối kỳ. Nó phản ánh kích thước và trọng lượng của bào thai hơn là độ tuổi. Các phép đo nối tiếp rất hữu ích trong việc giám sát sự tăng trưởng của bào thai. Các phép đo AC không nên được sử dụng để chẩn đoán ngày dự sinh.

Trọng lượng thai nhi ở bất kỳ thời kỳ mang thai nào cũng có thể được ước tính với độ chính xác tuyệt vời bằng cách sử dụng công thức chứa BPD, FL và AC. Các phần mềm máy tính và bảng tra cứu đều có sẵn. Ví dụ, một BPD 9,0 cm và một AC 30,0 cm sẽ cho một ước tính trọng lượng là 2,85 kg.

4. Chẩn đoán dị dạng thai nhi.

Nhiều dị dạng cấu trúc ở bào thai có thể được chẩn đoán chắc chắn bằng siêu âm, và thường có thể được thực hiện trước 20 tuần. Ví dụ phổ biến bao gồm tràn dịch não, thiếu một phần não, myelomeningocoele, chứng loạn sản sụn và xương khác, nứt đốt sống, exomphalos, Gastroschisis, hẹp tá tràng và hydrops thai nhi . Với các thiết bị hiện đại ngày nay, các dị tật như sứt môi /vòm miệng hở và bất thường tim bẩm sinh được chẩn đoán nhanh hơn và ở tuổi thai sớm hơn.

Ba tháng đầu siêu âm mốc ‘mềm’ cho các bất thường nhiễm sắc thể như sự vắng mặt của xương mũi của thai nhi, tăng độ mờ gáy thai nhi (khu vực ở phía sau cổ) hiện đang sử dụng phổ biến để cho phép phát hiện hội chứng Down thai nhi.

Siêu âm sản khoa cũng có thể hỗ trợ các thủ thuật chẩn đoán khác trong chẩn đoán trước khi sinh, chẳng hạn như chọc nang, lấy mẫu villion, tá tràng (lấy máu qua da) và trong liệu pháp bào thai .

5. Mang thai số lượng nhiều.

Trong trường hợp này, siêu âm là vô giá trong việc xác định số lượng bào thai, cấu trúc của bào thai, bằng chứng về chậm phát triển và dị tật thai nhi, sự có mặt của previa ở nhau thai, và bất cứ đề nghị truyền máu đôi .

6. Các lĩnh vực khác.

Siêu âm sản khoa có tác dụng lớn trong các điều kiện sản khoa khác như:

a) Xác nhận tử vong trong tử cung. 
b) Xác nhận sự trình bày của bào thai trong các trường hợp không chắc chắn. 
c) Đánh giá chuyển động, giai điệu và hít thở của bào thai trong hồ sơ sinh lý . 
d) Chẩn đoán tử cung và các bất thường về vùng chậu trong thời gian mang thai, ví dụ như fibromyomata và u buồng trứng.